CHUYỂN ĐỔI KINH TẾ XANH NHÌN TỪ KINH NGHIỆM CỦA TRUNG QUỐC
1. Yêu cầu về chuyển đổi kinh tế xanh
Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh chóng đã dẫn đến những thách thức về tài nguyên và môi trường cho các quốc gia, đòi hỏi phải chuyển đổi các chiến lược phát triển. Theo IPCC (2022), nhiệt độ bề mặt trung bình toàn cầu trong thập kỷ 2011-2020 cao hơn 1,09°C so với giai đoạn 1850-1900. Nếu tốc độ hiện tại tiếp tục, hiện tượng nóng lên toàn cầu có thể đạt tới mức tăng 1,5°C trong khoảng thời gian từ 2030 đến 2052. Trái đất có tháng nóng nhất kỷ lục vào tháng 7 năm 2023, ấm hơn khoảng 1,5°C so với mức trung bình thời tiền công nghiệp trong giai đoạn 1850-1900. Tổng thư ký Liên hiệp quốc Antonio Guterres đã cảnh báo rằng “kỷ nguyên nóng lên toàn cầu đã kết thúc” và “kỷ nguyên sôi sục toàn cầu đã đến” đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phải có hành động toàn cầu về khí thải, thích ứng với khí hậu và tài chính khí hậu – ba trụ cột của Hiệp định Paris.
Hình 1. Lượng khí phát thải nhà kính chia theo nhóm quốc gia 2010 – 2050
Nguồn: United Nations Environment Programe, 2022
Trong bối cảnh đó, kinh tế xanh đang trở thành xu hướng phát triển tại nhiều quốc gia, trong bối cảnh các nước đều đang theo đuổi mục tiêu vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vừa giải quyết những thách thức về ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu. “Chuyển đổi xanh”, “kinh tế xanh” hay “tăng trưởng xanh” theo Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) và Ủy ban Kinh tế xã hội khu vực châu Á – Thái Bình Dương của Liên hợp quốc (UNESCAP) là chiến lược tìm kiếm tối đa hóa sản lượng kinh tế, trong khi giảm thiểu gánh nặng sinh thái, đảm bảo sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, tính bền vững môi trường, thông qua thay đổi căn bản trong phương thức sản xuất và tiêu dùng xã hội, hướng tới ít phát thải/trung hòa carbon, tiết kiệm tài nguyên, nâng cao đời sống của con người, cải thiện công bằng xã hội; đồng thời, giảm đáng kể những rủi ro môi trường và thiếu hụt sinh thái. Về bản chất, một nền kinh tế chuyển đổi xanh là một nền kinh tế ngày càng có mức phát thải thấp, sử dụng hiệu quả và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo tính công bằng về mặt xã hội và ngăn chặn sự suy giảm đa dạng sinh học và dịch vụ của hệ sinh thái.
Hình 2. Thay đổi trong cam kết của các quốc gia về phát thải CO2 từ tiêu thụ năm lượng vào năm 2030 (tỷ tấn)
Nguồn: IEA, 2023
Việc chuyển đổi kinh tế xanh là yêu cầu cấp bách của mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với các quốc gia đang phát triển, nhằm đạt mức phát triển xanh toàn cầu. Nguyên nhân xuất phát từ việc các quốc gia đang phát triển ít có khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu và thường có xu hướng phát triển nền kinh tế dựa trên khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Do đó, các quốc gia này có nguy cơ phải đối mặt với những mối đe doạ về kinh tế, xã hội và sinh thái từ việc không đảm bảo về nguồn năng lượng, thực phẩm và nước do biến đổi khí hậu và thiên tai. Bên cạnh đó, mặc dù phần lớn các quốc gia đang phát triển chỉ đóng góp một phần không đáng kể vào lượng khí thải toàn cầu so với các quốc gia OECD, các quốc gia sẽ tăng lượng khí phát thải nhà kính nếu đi theo các mô hình tăng trưởng kinh tế thông thường. Để giải quyết những thách thức trên, tăng trưởng xanh được coi là cách tiếp cận mới nhằm tái cơ cấu mô hình tăng trưởng truyền thống và đánh giá lại những quyết định đầu tư về nhu cầu năng lượng, nông nghiệp, nước sạch và tài nguyên của tăng trưởng kinh tế. Hình 2 cho thấy theo cam kết giảm khí thái của các quốc gia cập nhật vào tháng 10/2023, lượng phát thải của ngành năng lượng sẽ đạt đỉnh trong thập kỷ này và giảm xuống 30 tỷ tấn CO2 vào năm 2030 – thấp hơn khoảng 8% so với lượng phát thải hiện nay. Điều này thể hiện sự cải thiện khoảng 5 tỷ tấn CO2 so với các cam kết đầu tiên vào năm 2016, với mức giảm khoảng 2 tỷ tấn đến từ các nền kinh tế tiên tiến trong khi các thị trường mới nổi chiếm khoảng 3 tỷ tấn.
2. Khuôn khổ phát triển kinh tế xanh cho các quốc gia đang phát triển
Theo OECD, khuôn khổ phát triển kinh tế xanh cho các quốc gia đang phát triển sẽ bao gồm 3 khía cạnh chính, đó là: xây dựng kế hoạch tăng trưởng xanh quốc gia, xây dựng cơ chế cho phát triển xanh, và xây dựng công cụ tăng trưởng xanh.
Thứ nhất, xây dựng kế hoạch tăng trưởng xanh quốc gia nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển đổi kinh tế xanh. Để đạt được điều này, chính phủ các quốc gia cần tập trung vào việc xây dựng và kết nối các chính sách, các sáng kiến và các quy định hiện có nhằm nâng cao hiệu quả của sự kết hợp, tập trung sâu vào những chính sách đã được chứng minh là có hiệu quả trong việc lồng ghép phát triển bền vững. Điều này cũng sẽ đảm bảo rằng các lựa chọn về chính sách mang tính hứa hẹn nhất sẽ nhanh chóng được thực hiện, cũng như mở rộng quy mô, tránh sự chậm trễ trong lập pháp và các vấn đề khác. Sáu điều kiện quốc gia được xác định dành cho tăng trưởng xanh bao gồm:
(1) Chi tiêu chính phủ cần được chuyển hướng nhằm tránh các hoạt động lãng phí, lạm dụng hay làm xuống cấp môi trường.
(2) Thực thi pháp luật một cách hiệu quả hơn nhằm tạo ra động lực trong thúc đẩy đầu tư xanh. Việc thực thi yếu kém sẽ làm giảm niềm tin của các nhà đầu tư cũng như thị trường trong dài hạn, còn làm các doanh nghiệp mất động lực để cải thiện.
(3) Đổi mới khoa học, nghiên cứu, giáo dục và đào tạo nhằm hỗ trợ quá trình chuyển đổi sang một nền kinh tế xanh.
(4) Xây dựng các cơ chế về quyền tài nguyên và quyền đất đai nhằm bảo vệ lợi ích của những cá nhân, đối tượng yếu thế.
(5) Tạo điều kiện thuận lợi cho những thay đổi về tâm lý và hành vi. Cần định hướng tăng trưởng xanh như một mục tiêu xã hội, thu hẹp các lựa chọn theo hướng tiếp cận xanh hơn, đồng thời thúc đẩy giúp mọi người đưa ra những quyết định tốt hơn và điều chỉnh thông tin phù hợp với động lực và phương pháp tiếp cận của các bên liên quan.
(6) Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tích hợp đầy đủ các mối quan tâm về tính bền vững và công bằng thông qua việc cung cấp thông tin.
Hình 3. Khuôn khổ phát triển kinh tế xanh cho các quốc gia đang phát triển
Nguồn: OECD, 2012
Thứ hai, chính phủ nên xây dựng các cơ chế cho phát triển xanh, bao gồm:
(1) Đánh giá chi tiêu công cho môi trường: kiểm tra việc phân bổ nguồn lực của Chính phủ trong, giữa các ngành và ở cấp quốc gia cũng như cấp địa phương, đồng thời đánh giá hiệu quả của các khoản phân bổ do Chính phủ thực hiện trong bối cảnh ưu tiên về môi trường.
(2) Chiến lược đánh giá môi trường: là một trong những công cụ nổi bật nhất trong việc lồng ghép môi trường. Chiến lược này ngày càng được công nhận rằng có thể đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng xanh. Chiến lược xác định sự đánh đổi giữa các mục tiêu về môi trường, xã hội và kinh tế, điều này mang lại giá trị tiềm năng trong việc đánh giá rõ ràng rằng liệu các chính sách “xanh” hoặc các chương trình lớn như cải cách trợ cấp hay đưa ra các chính sách cụ thể về công nghệ xanh có thể gây ra những hậu quả không lường trước được hay không. Cơ chế này còn tập trung vào chính sách và cấp độ thể chế hữu ích trong việc thực hiện những thay đổi quản trị cần thiết cho tăng trưởng xanh.
(3) Hội đồng phát triển bền vững: cung cấp một cơ chế có giá trị cho mối quan hệ làm việc có tính phối hợp và có nguyên tắc giữa Chính phủ, doanh nghiệp và xã hội. Hội đồng tạo điều kiện thuận lợi cho việc tích hợp nhiều khía cạnh của phát triển bền vững vào việc lập kế hoạch và xây dựng chiến lược, hoạch định chính sách, thực hiện chương trình cũng như giám sát và đánh giá. Cơ chế này cũng cung cấp một phương tiện quan trọng để dung hòa các ưu tiên ở cấp địa phương với cấp quốc gia (và toàn cầu), tạo điều kiện chuyển các cam kết toàn cầu thành các sáng kiến cấp quốc gia và địa phương cũng như các ưu tiên phát triển bền vững thành các chính sách và hành động cụ thể.
(4) Kế toán xanh và các biện pháp phát triển thay thế: thuật ngữ “kế toán xanh” được sử dụng theo nghĩa tổng quát hơn để chỉ việc tích hợp thông tin về môi trường và xã hội vào hệ thống tài khoản kinh tế quốc gia nhằm đưa ra một bức tranh tổng quan chính xác hơn về tình hình và sự phát triển của nền kinh tế. Một chương trình hợp tác mới được triển khai bởi Ngân hàng Thế giới hỗ trợ, Kế toán tài sản và Định giá dịch vụ hệ sinh thái (WAVES) đang hướng tới việc xác định và lồng ghép các phương pháp thực hành tốt nhất, nhằm hỗ trợ các sáng kiến mới nổi như chi trả cho các dịch vụ hệ sinh thái và các kế hoạch tăng trưởng xanh.
Thứ ba, triển khai các công cụ chính sách tăng trưởng xanh nhằm khai thác các cơ hội xanh. Cơ hội tăng trưởng xanh ở các nước đang phát triển nằm trên một hệ thống tài nguyên và không gian thường chồng chéo nhau, mỗi hệ thống có đặc điểm kỹ thuật riêng đi kèm những thách thức về chính sách. Do đó, các công cụ chính sách tăng trưởng xanh cụ thể cần được xác định và sử dụng theo những cách kết hợp và ở mức độ khác nhau tùy theo bối cảnh quốc gia. Do các nước đang phát triển nhấn mạnh vào khía cạnh công bằng và phân bổ của tăng trưởng xanh, nên khi áp dụng các công cụ này, cần đặc biệt chú ý đến những tác động đối với hỗ trợ các hộ sản xuất nhỏ, giảm nghèo và khuyến khích tạo việc làm.
(1) Chứng nhận sản xuất và thương mại bền vững: Để được chứng nhận và trở thành một công cụ chính sách tăng trưởng xanh khả thi ở các nước đang phát triển, cần chú ý các yếu tố: các kế hoạch đã được đề ra cần phải giải quyết được sự khác biệt ở địa phương cả về điều kiện phía cung lẫn phía cầu, các chương trình cần được hỗ trợ bằng chiến lược thúc đẩy nhu cầu đối với các sản phẩm được chứng nhận trong khi vẫn duy trì mức độ nghiêm ngặt phù hợp trong các tiêu chuẩn và đánh giá, các chương trình cần đảm bảo rằng các hộ sản xuất nhỏ có thể tiếp cận và hưởng lợi từ chứng nhận
(2) Cải cách về trợ cấp: Chìa khóa để đảm bảo cải cách trợ cấp có thể đạt được kết quả toàn diện hơn cho tăng trưởng xanh đó là sử dụng hợp lý số tiền được giải ngân nhờ cải cách trợ cấp để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển đổi cho người nghèo nhằm cải thiện năng lực tăng trưởng xanh của nền kinh tế. Những nỗ lực cải cách thành công hơn trợ cấp đã áp dụng cách tiếp cận tổng hợp với các biện pháp bảo trợ xã hội bổ sung, chẳng hạn như cấp tiền trợ cấp và các biện pháp bảo vệ người nghèo trước sự gia tăng giá năng lượng, nước và đầu vào nông nghiệp.
(3) Chi trả cho dịch vụ hệ sinh thái (PES): PES có thể tập trung vào một hoặc nhiều dịch vụ và có thể có quy mô từ một vài nông dân và vài trăm ha đến hàng nghìn nông dân và hàng triệu ha. PES được thực hiện nhằm mục đích nâng cao hiệu quả quản lý đất đai bằng cách tính đến giá trị của hàng hóa và dịch vụ hệ sinh thái. Đến nay, phần lớn các chương trình PES đều tập trung vào hệ sinh thái rừng; tuy nhiên hiện nay, các chương trình kết hợp nông nghiệp ngày càng phổ biến.
(4) Cải cách tài chính môi trường: bao gồm thuế hoặc phí đối với việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, phí sử dụng các dịch vụ như cấp nước và quản lý chất thải để thu hồi chi phí và các loại thuế liên quan đến môi trường như phí ô nhiễm. Thuế môi trường có thể làm tăng hiệu quả trong quản lý môi trường và sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Kết quả cải thiện chất lượng môi trường có thể hỗ trợ các hoạt động sản xuất dựa vào đầu vào môi trường, chẳng hạn như cung cấp nước sạch và xây dựng nguồn nhân lực thông qua các tác động tích cực đến sức khỏe. Những công cụ tăng doanh thu có thể được sử dụng cho các chương trình môi trường và giảm nghèo hoặc giảm các loại thuế đánh vào lao động và vốn có tác động tiêu cực hơn.
(5) Khung và ưu đãi đầu tư cho năng lượng xanh: đòi hỏi Chính phủ phải hỗ trợ năng lượng tái tạo để thiết lập thị phần ban đầu, tiếp cận nguồn điện quốc gia, lưới điện và cơ sở hạ tầng năng lượng khác để thu hút đầu tư bao gồm: các nguyên tắc; tạo sự cạnh tranh mạnh hơn trong lĩnh vực năng lượng, đặc biệt là điện các quốc gia; cải thiện pháp luật về PPP và tăng cường năng lực các khu vực công để giải quyết các vấn đề đó; quy định tài chính
(6) Doanh nghiệp xã hội xanh toàn diện: Các doanh nghiệp xã hội ngày càng hướng đến việc đạt được lợi ích theo “ba điểm mấu chốt” kinh tế, xã hội và môi trường, do đó giải quyết được nhiều tiêu chí tăng trưởng xanh quan trọng đối với việc phát triển quốc gia. Họ tập trung vào việc vượt qua các thách thức công nghệ hoặc rào cản chi phí sẽ góp phần thúc đẩy đổi mới, một động lực quan trọng của tăng trưởng xanh. Các doanh nghiệp xã hội cũng đưa ra một mô hình để biết thêm kinh doanh theo định hướng lợi nhuận truyền thống về những lợi ích tiềm năng của một định hướng xã hội và bền vững hơn tiếp cận.
(7) Mua sắm công bền vững: Mua sắm công bền vững (SPP) có thể kích thích cung và cầu sản phẩm, đóng góp vào các mục tiêu xã hội và môi trường. Một số bài học mới nổi về SPP ở các nước đang phát triển cho thấy các sáng kiến nên: (i) xác định hàng hóa và dịch vụ có tác động cao; (ii) thí điểm các sáng kiến nhằm xây dựng năng lực và hỗ trợ; và (iii) đảm bảo sự hợp tác nhiều bên liên quan giữa khu vực công và tư nhân ngay từ đầu.
(8) Đổi mới xanh: các chính sách thúc đẩy đổi mới xanh ở các nước đang phát triển cần được điều chỉnh phù hợp với hoàn cảnh quốc gia. Các yếu tố chính của chính sách đổi mới xanh bao gồm: cung cấp các tín hiệu chính sách có thể dự đoán được để đảm bảo rằng các nhà đổi mới và áp dụng công nghệ thân thiện với khí hậu tiềm năng không bị cản trở trong việc thực hiện các khoản đầu tư cần thiết; tập trung nỗ lực R&D công nhiều hơn vào việc thúc đẩy đổi mới xanh, đặc biệt là đáp ứng nhu cầu địa phương; tăng cường năng lực địa phương để tiếp thu công nghệ từ nước ngoài và điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu; tận dụng các cơ hội do mua sắm công, tiêu chuẩn và chính sách quản lý mang lại để củng cố và cải thiện thị trường cho các sản phẩm xanh, thúc đẩy quá trình đổi mới.
3. Kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc chuyển đổi kinh tế xanh
Hình 4. Cường độ năng lượng,
hệ số nhiên liệu và cường độ carbon của các
nền kinh tế Châu Á Thái Bình Dương trong năm 2001, 2011 và 2021*
Nguồn: PwC, 2023
* Trục tung: cường độ sử dụng năng lượng, cho thấy việc cần phải sử dụng bao nhiêu năng lượng để tạo ra 1 đồng GDP; Trục hoành: hệ số nhiên liệu, cho thấy mức phát thải trên mỗi tấn nhiên liêu, độ lớn của hình tròn: Đo lường bao nhiêu phát thải CO2 trên từng đơn vị năng lượng tiêu thụ, cho thấy mức độ xanh của năng lượng tiêu thụ. Tối ưu: Góc trái dưới.
Hình 4 biểu thị hiệu quả trong việc giảm lượng khí thải nhà kính trên mỗi một đơn vị tăng trưởng tại các quốc gia Châu Á- Thái Bình Dương. Trong đó, Trung Quốc là một trong các quốc gia đạt hiệu quả trong việc cải thiện tiêu thụ năng lượng quá mức trong quá trình tăng trưởng kinh tế, cũng như nâng cao “chất lượng” của năng lượng tiêu thụ. Vì vậy, chúng tôi lựa chọn Trung Quốc như một điển hình trong nghiên cứu kinh nghiệm chuyển đổi kinh tế xanh.
3.1. Bối cảnh kinh tế – môi trường tại Trung Quốc
Trung Quốc đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt trội kể từ năm 1978 khi nước này bắt đầu quá trình cải cách và mở cửa. Sự trỗi dậy kinh tế của Trung Quốc được đặc trưng bởi sự tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người, độ phức tạp kinh tế ngày càng tăng, lĩnh vực sản xuất mở rộng, đổi mới khoa học và công nghệ, thương mại và thu hút nguồn đầu tư nước ngoài. Thành công kinh tế của Trung Quốc được thúc đẩy bởi quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất. Trung Quốc hiện chiếm hơn 31% giá trị gia tăng sản xuất của thế giới, trong khi con số này chỉ là 3,4% vào năm 1979. Trên thực tế, kể từ năm 2013, chỉ riêng Trung Quốc đã chiếm khoảng 62,5% giá trị gia tăng sản xuất tổng hợp của tất cả quốc gia OECD.
Hình 5. GDP bình quân đầu người: so sánh giữa Trung Quốc và
mức độ bình quân thế giới
Nguồn: UNCTADStat
Đô thị hóa nhanh chóng và mở rộng các ngành sử dụng nhiều năng lượng như sản xuất thép, vật liệu xây dựng, kim loại màu và các sản phẩm hóa học, cùng nhiều ngành khác, đã dẫn đến nhu cầu năng lượng rất lớn. Vào những năm 1990, tổng mức tiêu thụ năng lượng sơ cấp của Trung Quốc là 691 triệu tấn, sau đó tăng gấp 5 lần lên mức 3,486 triệu tấn vào năm 2020. Trong đó, cơ cấu năng lượng của Trung Quốc chủ yếu là nhiên liệu hóa thạch, đặc biệt là than đá, ngay cả khi năng lượng tái tạo đã xuất hiện. Vào những năm 1990, than chiếm khoảng 79% năng lượng sử dụng. Tỷ lệ này tính đến năm 2020 là 56,8%, cao hơn mức trung bình thế giới.
Theo Thông báo quốc gia lần thứ ba của Trung Quốc gửi Ban thư ký Công ước khung Liên Hợp quốc về Biến đổi khí hậu (UNFCCC), việc sử dụng năng lượng (chiếm 78,6%) và quy trình công nghiệp (chiếm 12,3%) là những nguồn phát thải chính, chiếm hơn 90% tổng lượng khí nhà kính. Quy mô sử dụng năng lượng lớn và hỗn hợp chủ yếu là than dẫn đến lượng phát thải khí nhà kính (GHG) tăng vọt ở Trung Quốc, khiến quốc gia này trở thành quốc gia có lượng phát thải lớn nhất thế giới kể từ khoảng năm 2006.
Hình 6. Lượng phát thải CO2 tại Trung Quốc
Nguồn: EDGAR
3.2. Chiến lược của Trung Quốc hướng tới phát triển xanh
Những nỗ lực của Trung Quốc nhằm nhấn mạnh mục tiêu về bền vững môi trường trong các chiến lược phát triển của mình có thể bắt nguồn từ những năm 1980 và sau đó mở rộng quy mô vào những năm 1990. Tuy nhiên, các mục tiêu tăng trưởng kinh tế đã vượt xa mối lo ngại về môi trường trong những năm 1990 và đầu những năm 2000.
Kể từ năm 2015, khi tham gia Thỏa thuận Paris và sau đó là cam kết mục tiêu năm 2030-2060, Trung Quốc đã điều chỉnh chiến lược chính sách kinh tế để đạt được mục tiêu kép là tăng trưởng kinh tế bền vững và chuyển đổi xanh. Cụ thể, Trung Quốc đã đệ trình các cam kết về chuyển đổi xanh lên UNFCCC, trong đó đề ra mục tiêu đến năm 2030, giảm hơn 65% lượng phát thải CO2 trên GDP và tăng trữ lượng rừng thêm 6 tỷ mét khối; đến năm 2060, tăng tỷ trọng nhiên liệu không hóa thạch trong tiêu thụ năng lượng lên trên 80%; và đạt mục tiêu trung hòa carbon
Theo nguyên tắc chỉ đạo, chiến lược phát triển xanh và ít phát thải carbon của Trung Quốc có thể được coi là một phần không thể thiếu của khuôn khổ Phát triển Chất lượng cao, nhằm mục đích thúc đẩy “đổi mới, phối hợp, phát triển xanh, cởi mở và chia sẻ” trong quốc gia Trung Quốc. Cụ thể đối với quá trình chuyển đổi xanh sang nền kinh tế có carbon thấp, Trung Quốc đã xây dựng khung chính sách khá toàn diện, bao gồm các “khuôn khổ chính sách cao nhất” và các định hướng triển khai ở từng cấp ngành.
Khung chính sách như vậy được mô tả là khung chính sách “1+N” ở Trung Quốc. Trong đó, “1” đề cập đến văn bản chính sách bao quát, đặt ra các nguyên tắc chỉ đạo cho tất cả các chính sách hướng tới mục tiêu trung lập và mục tiêu cao nhất của Trung Quốc. Chữ “N” là tập hợp các văn bản chính sách bổ sung nhằm giảm lượng khí thải carbon và tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi sang nền kinh tế xanh trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Để huy động các nguồn lực nhằm bảo đảm quá trình chuyển đổi, Trung Quốc cũng đã điều chỉnh lại khuôn khổ chính sách kinh tế vĩ mô của mình, một phần bằng cách xây dựng hệ thống tài chính xanh.
Kể từ khoảng năm 2015, Trung Quốc đã đẩy nhanh quá trình chuyển đổi chiến lược phát triển của mình. Các khái niệm như Phát triển chất lượng cao (HQD), Mô hình phát triển mới (NDP), Văn minh sinh thái và các khái niệm khác đã được đề xuất và tích hợp trong nhiều văn bản chính sách kinh tế, đặc biệt là Kế hoạch 5 năm lần thứ 14, Đề cương tầm nhìn 2035 và Khung chính sách “1+ N” về trung hòa carbon. Các chính sách này cùng nhau vạch ra lộ trình của chính phủ Trung Quốc nhằm thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu xanh ở nước này.
3.3. Chính sách chuyển đổi năng lượng tại Trung Quốc
Sử dụng năng lượng được cho là nguồn phát thải khí nhà kính lớn nhất. Trung Quốc có nhu cầu năng lượng tăng vọt trong ba thập kỷ qua, nhưng tốc độ tăng trưởng đã chậm lại kể từ năm 2013. Trong các giai đoạn 1990-2000, 2000-2010 và 2010-2020, tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm lần lượt là 4,06%, 9,39% và 3,28%. Đến năm 2020, cơ cấu năng lượng của Trung Quốc chủ yếu là than (56,8%), tiếp theo là dầu (18,9%), khí đốt tự nhiên (8,4%) và các loại năng lượng khác (15,9%) bao gồm năng lượng tái tạo và hạt nhân.
Chiến lược chuyển đổi năng lượng của Trung Quốc bao gồm ba cách tiếp cận chính, hướng tới 4 nhóm trọng tâm là công nghiệp, xây dựng, vận tải, và dịch vụ công cộng. Từ phía cầu, quốc gia này đang theo đuổi mục tiêu tiết kiệm năng lượng và điện khí hóa. Từ phía cung, Trung Quốc đặt mục tiêu giảm tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch và phát triển năng lượng tái tạo. Cuối cùng, Trung Quốc đang theo đuổi an ninh năng lượng bằng các biện pháp bao gồm đa dạng hóa nguồn cung và xây dựng hệ thống lưới điện thông minh.
Bảng 1: Các chính sách chuyển đổi năng lượng chính tại Trung Quốc
Lĩnh vực | Chính sách | Công cụ chính sách | Đơn vị triển khai |
Công nghiệp | Chương trình tiết kiệm năng lượng của 10.000 doanh nghiệp | Quy định | |
Chương trình thay thế các công nghệ lỗi thời | Quy định | ||
Quỹ công nghệ tiết kiệm năng lượng | Khuyến khích | ||
Chính sách giá điện theo mức độ tiêu thụ | Công cụ kinh tế | ||
Chương trình đóng cửa doanh nghiệp nhỏ | Quy định | ||
Xây dựng | Thúc đẩy các tiêu chuẩn tiết kiệm năng lượng | Quy định | |
Cải tạo các tòa nhà dân cư hiện có | Đầu tư | ||
Trang bị thêm các công trình công cộng | Khuyến khích | ||
Tích hợp năng lượng tái tạo | Khuyến khích | ||
Khuyến khích các công trình xanh | Khuyến khích | ||
Chương trình giảm giá với các sản phẩm tiết kiệm năng lượng | Khuyến khích | ||
Chương trình loại bỏ dần đèn sợi đốt | Quy định | ||
Khuyến khích phát triển ngành dịch vụ năng lượng | Khuyến khích | ||
Chiến dịch bảo tồn năng lượng quốc gia | Giáo dục | ||
Vận tải | Tiêu chuẩn nhiên liệu của xe thương mại | Quy định | |
Kiểm soát năng lực vận tải hành khách đường bộ | Quy định | ||
Quỹ tiết kiệm năng lượng giao thông | Khuyến khích | ||
Dự án bảo tồn năng lượng giao thông vận tải | Đầu tư | ||
Chương trình phát triển hệ thống giao thông phát thải carbon thấp (thí điểm) | Khuyến khích | ||
Chương trình giảm giá với các sản phẩm tiết kiệm năng lượng | Khuyến khích | ||
Công cộng | Các dự án tiết kiệm năng lượng quan trọng của khu vực công | Đầu tư | |
Dự án chiếu sáng xanh thành phố | Đầu tư | ||
Chương trình mua sắm các sản phẩm tiết kiệm năng lượng bắt buộc của chính phủ | Chương trình | ||
Chiến dịch tiết kiệm năng lượng quốc gia | Giáo dục |
Nguồn: United nations, 2023
Với các chiến lược trên, Trung Quốc đã trở thành quốc gia dẫn đầu toàn cầu – và là nhà đầu tư lớn nhất – về năng lượng tái tạo, điều này sẽ giúp nước này giảm thiểu tổng lượng khí thải. Kể từ năm 2015, Trung Quốc là nước tiêu thụ năng lượng tái tạo hiện đại lớn nhất thế giới. Năm 2022, công suất năng lượng tái tạo mới được lắp đặt đạt 152 GW, chiếm khoảng 52% tổng công suất của thế giới (295 GW theo IRENA). Xu hướng như vậy được dự báo sẽ tiếp tục diễn ra. IEA (2022) ước tính rằng Trung Quốc sẽ đầu tư gần một nửa công suất năng lượng tái tạo mới trên toàn cầu trong giai đoạn 2022-2027.
Hình 7. Dự kiến nhu cầu tiêu thụ năng
lượng của Trung quốc,
theo chính sách chuyển đổi năng lượng
Nguồn: Jiang, 2022
Hình 8. Công suất sản xuất điện năng
lượng và điện gió
tại các quốc gia trên thế giới
Nguồn: REN21, 2022
Cùng với đó, cường độ sử dụng năng lượng tại Trung Quốc (đo lường qua mức năng lượng cần thiết để tạo ra một đơn vị GDP) giảm hơn 70%, từ 3,4 tce trên 10000 nhân dân tệ vào năm 1980 xuống 0,74 tce trên 10000 nhân dân tệ vào năm 2020. Từ năm 2005 đến năm 2020, nền kinh tế đã tăng trưởng với tốc độ tăng trưởng hàng năm là 8,8%, trong khi ở cùng kỳ, tốc độ tăng trưởng tiêu thụ năng lượng là 5,1%. Trong thời kỳ này, Trung Quốc chiếm một nửa lượng năng lượng tiết kiệm được trên toàn thế giới trong vòng 20 năm qua. Kỷ lục tiết kiệm năng lượng của Trung Quốc và thành công trong việc tách phụ thuộc tăng trưởng kinh tế khỏi mức độ sử dụng năng lượng được xếp vào nhóm tốt nhất trên toàn thế giới.
3.4. Một số bài học rút ra
Trung Quốc đã phát triển nhiều chính sách nhằm đảm bảo nguồn cung an toàn thông qua sự kết hợp bền vững giữa các nguồn năng lượng, chủ yếu thông qua tiết kiệm năng lượng và thúc đẩy năng lượng tái tạo. Từ năm 1990 đến năm 2005, tiết kiệm năng lượng chiếm ưu thế trong chính sách năng lượng và thúc đẩy những đột phá về hiệu quả sử dụng năng lượng. Sau năm 2005, năng lượng tái tạo trở thành trọng tâm trong hoạch định chính sách năng lượng. Thông qua việc thiết lập mục tiêu và FIT, cùng với việc giảm đáng kể chi phí cho điện mặt trời và điện gió đến năm 2021, công suất lắp đặt điện mặt trời và điện gió đã tăng lên rất nhiều. Năm 2012, Trung Quốc đứng thứ 5 về công suất lắp đặt điện mặt trời với 8,9GW; mức này đạt 351GW vào năm 2021, bằng 10 quốc gia tiếp theo cộng lại. Dù đã đạt được những thanh công nhất định, nhưng việc triển khai các chính sách hỗ trợ mục tiêu giảm thiểu khí thải vẫn còn là một nhiệm vụ khó khăn đối với không chỉ Trung Quốc mà còn đối với các quốc gia trên thế giới. Dựa trên các chiến lược đã được chính phủ Trung Quốc triển khai, một số lưu ý có thể rút ra là:
(1) Hệ thống năng lượng mới do Chính phủ Trung Quốc đề xuất là hướng đi thiết yếu cho hệ thống năng lượng theo mục tiêu 2030-2060. Việc xác định rõ tầm nhìn về hệ thống năng lượng mới giúp quốc gia này đạt được những thành công trong quá trinh chuyển đổi xanh.
(2) Các chiến lược tiết kiệm năng lượng cần tập trung hơn vào việc sử dụng hiệu quả năng lượng. Chỉ thông qua tiết kiệm năng lượng mới có thể đảm bảo an ninh năng lượng và giảm chi phí năng lượng.
(3) Cần có các tiêu chuẩn xây dựng bắt buộc, sử dụng năng lượng tiết kiệm càng sớm càng tốt để tránh nhu cầu năng lượng cao từ các tòa nhà.
(4) Tiến bộ công nghệ sẽ thúc đẩy việc triển khai nhanh chóng các cơ sở sản xuất điện gió và năng lượng mặt trời trong tương lai gần. Trong đó, cần thiết phải thiết kế tốt hệ thống lưới điện hỗ trợ sự phát triển.
(5) Các chính sách hỗ trợ phát triển công nghiệp xanh dựa trên hydro là rất cần thiết. Ngành công nghiệp dựa trên hydro xanh có tiềm năng lớn và có thể góp phần sử dụng năng lượng tái tạo tại địa phương.
(6) Một hệ thống định giá sử dụng điện linh hoạt sẽ góp phần to lớn vào các mục tiêu năng lượng. Hệ thống định giá điện sẽ tác động đến phía người tiêu dùng, mang lại cho họ quyền lợi trong việc đảm bảo an ninh cao cho nguồn cung cấp điện của mình.
4. Giải pháp thúc đẩy tăng trưởng xanh tại Việt Nam
Việt Nam không nằm ngoài xu hướng phát triển kinh tế xanh của thế giới, đặc biệt khi Việt Nam là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề bởi biến đổi khí hậu. Việt Nam đã và đang có nhiều cơ hội trong việc xanh hóa nền kinh tế, nhiều khía cạnh đã được phát huy hiệu quả và đạt được những thành tựu nhất định, song trên một số khía cạnh tiềm năng vẫn còn lớn và đối mặt với không ít thách thức để chuyển hóa những lợi thế. Năm 2012, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1393/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2050. Đây là chiến lược quốc gia đầu tiên, toàn diện về lĩnh vực phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam. Theo đó, Chính phủ khẳng định: “Tăng trưởng xanh là một nội dung quan trọng của phát triển bền vững, đảm bảo phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững và góp phần quan trọng thực hiện Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu”. Mục tiêu chung được Chính phủ đặt ra là “Tăng trưởng xanh, tiến tới nền kinh tế các-bon thấp, làm giàu vốn tự nhiên trở thành xu hướng chủ đạo trong phát triển kinh tế bền vững; giảm phát thải và tăng khả năng hấp thụ khí nhà kính dần trở thành chỉ tiêu bắt buộc và quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội”. Trong đó, có ba nhiệm vụ chiến lược được đề ra bao gồm: giảm cường độ phát thải khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; xanh hóa sản xuất; và xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững.
Từ kinh nghiệm thực tiễn của các quốc gia trên thế giới và mục tiêu đặt ra của Chính phủ Việt Nam, nghiên cứu này đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy tăng trưởng xanh của Việt Nam trong thời gian tới, như là một phương thức nhằm cải thiện hiệu quả của nền kinh tế, như sau:
Thứ nhất, Việt Nam cần nhanh chóng hoàn thiện văn bản pháp luật về chuyển đổi xanh, đặc biệt chú trọng cải thiện tính hiệu quả trong việc thực thi chủ trương và chính sách về phát triển chuyển đổi xanh. Chính phủ Việt Nam có thể tham khảo Luật khung về chuyển đổi xanh của Hàn Quốc. Việc ban hành và thực thi văn bản luật liên quan có ý nghĩa rất lớn đến quá trình thực hiện Chiến lược quốc gia về chuyển đổi xanh của Việt Nam.
Thứ hai, Việt Nam cần tái cấu trúc lại nền kinh tế theo xu hướng nền kinh tế ít carbon và ít tiêu dùng năng lượng, để từ đó tối ưu hóa sử dụng năng lượng và khả năng phát thải cácbon gây ô nhiễm môi trường, do đó những dự án đầu tư tiêu tốn năng lượng và có lượng phải thải cao nên được hạn chế phát triển trong thời gian tới. Tiếp tục phát triển và gia tăng sử dụng nguồn năng lượng tái tạo và giảm dần sử dụng nguồn năng lượng hóa thạch có thể giúp cho đất nước chuyển nhanh sang nền kinh tế ít cácbon và có hoạt động sản xuất, tiêu dùng ít phát thải các khí thải gây hiệu ứng nhà kính.
Thứ ba, Chính phủ cần xây dựng các chính sách khuyến khích tiết kiệm năng lượng. Ví dụ như cần có các tiêu chuẩn xây dựng bắt buộc, sử dụng năng lượng thấp để tránh nhu cầu năng lượng cao từ các tòa nhà hoặc định giá sử dụng điện linh hoạt tác động đến phía người tiêu dùng sử dụng điện tiết kiệm.
Thứ tư, Việt Nam cần xây dựng thị trường tài chính xanh, đó là trái phiếu xanh, tín dụng xanh, để từ đó có thể định hướng nền kinh tế sang hoạt động sản xuất công nghệ cao hơn, hạn chế hoạt động sản xuất sử dụng công nghệ giản đơn và có mức độ ô nhiễm cao.
Thứ năm, Việt Nam cần có có các chính sách yêu cầu tích hợp các yếu tố ESG vào chiến lược kinh doanh, quá trình quản trị rủi ro và đánh giá hiệu suất thông qua việc cải thiện báo cáo phát triển bền vững của doanh nghiệp, từ đó có thể giúp tiết kiệm chi phí và kiến tạo giá trị lâu dài. Cùng với đó, doanh nghiệp cũng cần tích hợp kế hoạch, chiến lược phát triển bền vững dài hạn với kế hoạch tổng thể hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để đem lại hiệu quả tổng thể cao nhất trong thực thi.
Thứ sáu, nâng cao nhận thức và kiến thức về phát triển bền vững trong doanh nghiệp, đặc biệt tập trung vào đối tượng quản lý cấp cao, thông qua các khóa đào tạo, hội thảo, tọa đàm về ESG. Hiểu biết và nhận thức của lãnh đạo cấp cao sẽ tạo động lực mạnh mẽ trong việc truyền đạt rõ ràng, phối hợp và dẫn dắt toàn công ty trong quá trình triển khai ESG.
Thứ bảy, dựa trên kinh nghiệm của các nước đã đạt được những thành tựu nổi bật về chuyển đổi xanh thì việc giao lưu, hợp tác với cộng đồng quốc tế là đều rất cần thiết. Thông qua mối quan hệ với cộng đồng quốc tế, Việt Nam sẽ có cơ hội nhận được sự hỗ trợ không chỉ về vấn đề khoa học và công nghệ mà còn góp phần thúc đẩy việc huy động nguồn vốn đầu tư theo hướng chuyển đổi xanh, giải quyết vấn đề về biến đổi khí hậu, không ngừng cải thiện và đảm bảo chất lượng môi trường sống cho người dân.
Tác giả :
PGS. TS. Trần Việt Dũng
Viện trưởng Viện NCKH Ngân hàng, Học viện Ngân hàng